Phía trước nhà Quỳnh là một cánh đồng sâu rộng vài chục mẫu. Thuở còn sống ở quê, hàng ngày muốn đi tắt sang làng bên hoặc vào lối xóm, Quỳnh phải vượt một chặng lầy tới mười sãi nước. Mùa mưa, mẹ con người kéo te bên hàng xóm có chiếc thuyền thúng nhỏ, thường chở giúp "ông Cống" qua chỗ lội, không lấy tiền.
Thấm thoát mười năm trôi qua.
Khi đã ra làm quan ở kinh đô và tiếng Trạng đã vang danh khắp nơi, một lần về thăm quê Quỳnh gặp lại bà hàng xóm kéo te. Bà phàn nàn:
- Ông Trạng ơi, tôi hiếm hoi chỉ có một đứa con trai. Cái thằng năm xưa vẫn chở thúng đưa ông qua chỗ lội ấy, nay sắp phải lo vợ cho nó mà một đồng một chữ không có. Tôi chẳng biết vậy mượn ở đâu, ông có cách gì giúp mẹ con tôi với!
Tiếng tăm Trạng lừng lẫy thật, nhưng làm quan thanh liêm như ông, thời buổi ấy nuôi miệng cũng đã khó. Thương người mẹ nghèo hiếm hoi, nhưng biết tìm cách gì để bà ta có tiền cưới vợ cho con bây giờ? Bỗng Quỳnh hỏi bà hàng xóm:
- Này mẹ con nhà bác lâu nay vẫn còn chở thúng đấy chứ?
- Thưa ông Trạng, không chở thì lấy gì mà ăn? Có điều khách ít lắm, ngày chỉ được một, hai chuyến góp vào tiền kéo te bán tép, may ra mới đủ đong gạo!
Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, bác cứ về bỏ trầu xin cưới cho cháu đi. Tôi bấm độn đoán biết thế nào quãng đầu tháng sau mẹ con bác cũng kiếm được khoản tiền kha khá!
Bà hàng xóm buồn bã nghĩ ông Trạng nói cho vui câu chuyện.
Giữa cánh đồng nước sâu nổi lên một cồn đất cao. Mấy hôm nay người ta thấy trên cồn đất hiện lên một cái chòi lợp lá gồi hình tứ giác, nóc phất phới ngọn cờ xanh đuôi nheo. Chẳng rõ nguyên cớ từ đâu, người ta kháo nhau: Trạng Quỳnh ở kinh về thăm quê dựng lều thơ trên gò giữa đồng nước để xướng, họa liền trong ba ngày. Người nọ truyền người kia, nhưng kẻ khá giả trong làng, trong xã rủ nhau đi xem.
Những người đến đầu tiên thất vọng ngay. Họ ghé mắt nhìn vào trong chẳng thấy lầu thơ đâu cả, chỉ thấy một đống thù lù như hình người trùm chăn kín mít. Phía vách bên trên dán tờ giấy điều có hàng chữ: "Trạng đang lột ... cha đứa nào nói với đứa nào!".
Tự nhiên tốn tiền đò, mất công toi, bao nhiêu người bực mình ngán ngẩm. Toán người này về, vua đặt chân lên cũng ngại câu chửi, chẳng ai buồn nói với ai, đã thấy toán khác, rồi toán khác nữa, lũ lượt kéo tới, tò mò ra.
Người đi hỏi:
- Æ ở ngoài ấy có gì hay không?
Người về đáp:
- Trạng lột ... cha đứa nào nói với đứa nào!
Kỳ lạ thật! Trạng lột ... lại cấm không ai được nói với ai. Thế thì chắc phải có cái gì bí mật lạ lùng lắm!
Thế là một đồn mười, mười đồn trăm ... Buổi đầu, đồn xướng họa thơ, chỉ thu hút đám người hâm mộ chữ nghĩa. Nhưng buổi sau thêm tiếng đồn Trạng lột ... thôi thì bất kể trẻ già, trai gái ai cũng muốn tận mắt được xem. Mẹ con người hàng xóm đông khách quá, mẹ một thúng, com một thúng, thu tiền đò đếm mỏi tay không xuể...
Mấy hôm sau, Quỳnh đến bảo với người mẹ:
- Bây giờ chắc bác thừa tiền cưới dâu rồi. Hãy bảo con trai bác đi dỡ cái "lều thơ" mang lá gồi và tre nứa về, nối thêm bếp mà làm cỗ!
Bấy giờ hai mẹ con và dân làng mới rõ mẹo của ông Trạng cứu người nghèo. Để tỏ lòng kính trọng, người ta gọi luôn cái cồn kia là cồn Trạng lột. Hiện nay vẫn còn di tích ở giữa cánh đồng sâu xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa.